Hướng tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Trường Đại học Công đoàn lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2025 - 2030, Ban biên tập website trân trọng giới thiệu bài viết “Những đòn bẩy đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” của Giảng viên Bùi Thị Bích Thuận - Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Công đoàn đến bạn đọc. Bài viết được đăng trong Hội nghị tọa đàm Tư tưởng chỉ đạo, định hướng lớn của Đảng và Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về "kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" do Đảng ủy Khối các trường Đại học, Cao đẳng Hà Nội phối hợp với trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức.
1. Mở đầu
Phân kỳ lịch sử trong sự phát triển của xã hội nhằm làm rõ động lực cũng như mục đích của sự phát triển, có nhiều cách khác nhau phản ánh và phân kỳ lịch sử phát triển của xã hội như: “giai đoạn”, “thời kỳ”, “thời đại”, “chế độ”, “thế kỷ”, “kỷ nguyên”… trong đó nhiều khái niệm được nói và viết gần/đồng nghĩa với nhau.
Từ kỷ nguyên trong tiếng Hán là (紀元), được ghép bởi chữ Kỷ (紀) có ý nghĩa là năm, và chữ Nguyên (元) mang ý nghĩa đầu tiên, bắt đầu. Như vậy, từ kỷ nguyên (紀元) (kỷ: năm, nguyên: bắt đầu) dùng để chỉ thời kỳ lịch sử được mở đầu bằng một sự kiện trọng đại, có ý nghĩa quyết định sự phát triển về sau của xã hội hay của một lĩnh vực nào đó”.
Thao tác hóa về mặt khái niệm, thì “kỷ nguyên là một khoảng thời gian dài được xác định bởi các sự kiện, đặc điểm hoặc giai đoạn lịch sử quan trọng, có tác động đáng kể đến sự phát triển và tiến hóa của xã hội, văn hóa hoặc khoa học”.
Điểm đặc trưng của khái niệm kỷ nguyên trong phản ánh phân kỳ lịch sử phát triển của xã hội đó là: “1). Thường bắt đầu với một sự kiện nổi bật hoặc thay đổi lớn trong xã hội, đây chính là dấu mốc thể hiện khởi điểm cho sự chuyển đổi sang một giai đoạn mới. 2). Kỷ nguyên đề cập nhiều đến trạng thái phát triển có tính chất vượt bậc xét cả ở tốc độ và chất lượng. 3). Kỷ nguyên phát triển không bị ràng buộc trong khuôn khổ thời gian một chế độ chính trị nào đó, không phải bắt đầu cùng với sự xuất hiện của chế độ mới, kỷ nguyên có thể xuất hiện sau mốc khởi đầu của chế độ mới, xuyên qua các chế độ”.
Trong nhiều bài viết thời gian gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập đến khái niệm “Khởi điểm mới”, “Kỷ nguyên mới”, “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Theo đó Tổng Bí thư đã khẳng định “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại” xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh sánh vai với các cường quốc năm châu. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam có thể hiểu là kỷ nguyên vươn mình, bứt phá và phát triển của dân tộc, để đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, là nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng.
Đích đến của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là làm cho mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và được tạo điều kiện, hỗ trợ cho sự phát triển toàn diện của bản thân, đất nước giàu mạnh, đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi mỗi chặng đường phải hoàn thành triệt để các mục tiêu đề ra, qua đó tiếp tục duy trì và tạo động lực mới cho sự phát triển của các chặng đường tiếp theo.
Để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là nhờ Việt Nam đã tạo dựng được những nền tảng về thế và lực của đất nước trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, cùng với đó là những thời cơ mới trong bối cảnh thời đại có nhiều thay đổi. Đó cũng chính là những đòn bẩy quan trọng để thực hiện thành công các mục tiêu khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2. Nội dung
2.1. Thành tựu của 40 năm Đổi mới
Trải qua 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cùng với tư duy, tiếp cận và cách làm sáng tạo nổi bật, riêng có của Việt Nam, do người Việt Nam thực hiện. Công cuộc đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng “đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, với GDP chỉ 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008; quy mô nền kinh tế đạt 430 tỷ USD, đứng thứ 35 trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Vào năm 2023, GDP bình quân đầu người đã đạt mức 4.300 USD, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 58% theo chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2023, đưa Việt Nam trở thành hình mẫu nổi bật về nỗ lực xóa đói giảm nghèo trong số các quốc gia đang phát triển.
Từ một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 700 tỷ USD; thu hút đầu tư nước ngoài đạt 23 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay, ngay cả khi các thị trường lớn bị thu hẹp và chuỗi cung ứng toàn cầu còn nhiều đứt gãy. Cùng với quá trình cải cách và mở cửa, khả năng thích ứng và mức độ chống chịu của nền kinh tế ngày càng được nâng cao.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao so với khu vực và thế giới. Năng suất lao động liên tục tăng, giai đoạn 2016-2020 tăng 6,05%, 2021-2023 tăng 8,94%.
Tăng trưởng dựa nhiều hơn vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Mức đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn hơn, giai đoạn 2011-2015 là 34,75%, giai đoạn 2016-2020 là 46,04%, giai đoạn 2021-2023 là 37,61%. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt.
Quan hệ ngoại giao không ngừng được mở rộng, đi vào chiều sâu. Tính đến tháng 10/2024, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ. Việt Nam có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 8 quốc gia là: Trung Quốc (2008), Liên bang Nga (năm 2012), Ấn Độ (2016), Hàn Quốc (2022), Mỹ (9/2023), Nhật Bản (11/2023), Australia (2024), Pháp (2024). Trên thực tế, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước này đã và đang đạt được nhiều thành tựu trên tất cả lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Việt Nam đã vững vàng vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; đồng thời, trở thành một điểm sáng về sự ổn định, phục hồi và phát triển kinh tế trong bối cảnh tình hình trong nước và nhất là tình hình thế giới gặp rất nhiều khó khăn, bất ổn, có nhiều biến động vượt ra ngoài dự đoán. Như một số học giả quốc tế nhận định, những thành tựu đó đã từng bước xác lập “mô hình phát triển Việt Nam” với đặc trưng nổi bật là phát triển nhanh và bền vững, ổn định và đổi mới, lấy con người làm trung tâm. Việc phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, mức sống và chất lượng sống ngày càng được nâng cao.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo tiếp tục được hoàn thiện. Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của nhân dân. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ngày càng được hiện thực hóa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ thực tế trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo và phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân.
Sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng được củng cố và tăng cường, độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Qua 40 năm Đổi mới, Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc. An ninh, an toàn, trật tự xã hội, môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước được bảo đảm. Sức mạnh chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, sức mạnh quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Sức mạnh tổng hợp cho phát triển đất nước được nâng lên, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào thành công của quá trình xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế... đều có sự phát triển vượt bậc. Phát triển văn hóa, xã hội, con người có nhiều tiến bộ. Định hình hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam.
Công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là lựa chọn mang tính lịch sử, là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại mang tầm vóc lịch sử, có ý nghĩa to lớn, phù hợp thực tiễn Việt Nam, quy luật, xu thế phát triển chung của thời đại. Sau 40 năm Đổi mới mở ra cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế mới, tầm nhìn mới cho đất nước. Những kết quả đạt được là nền tảng và điều kiện quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại
- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế:
Toàn cầu hóa (Globalization) và hội nhập quốc tế (International Integration) tiếp tục là xu thế hiện thực khách quan của lịch sử, nhưng đang có nhiều thay đổi. Mô hình toàn cầu hóa kinh tế, thương mại tự do từ hàng chục năm qua đã tận dụng thế mạnh riêng của từng khu vực, từng quốc gia, tạo nên những công xưởng toàn cầu, đưa chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất có thể. Tuy nhiên, trải qua đại dịch Covid-19 và xung đột giữa Nga – Ukraine, thế giới đã chứng kiến những biến động lớn diễn ra, tạo nghi ngại về mô hình toàn cầu hóa kinh tế trước đây. Quá trình toàn cầu hóa có sự dịch chuyển mạnh sang xu hướng ưu tiên hợp tác sản xuất và kinh doanh hàng thiết yếu giữa các quốc gia thân thiện với nhau, nhằm tránh yếu tố chính trị tác động tới kinh doanh. Trong quá trình hội nhập quốc tế, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam tiếp tục khẳng định được vai trò và vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên trường quốc tế, có mối quan hệ thân thiện với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Vì vậy, Việt Nam tiếp tục là nơi thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong quá trình dịch chuyển toàn cầu hóa.
Quá trình đó tạo điều kiện để Việt Nam phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; học hỏi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, thu hút nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là tiếp thu tri thức để phát triển nền kinh tế, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực, thế giới tạo ra cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế; tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, thu hút mạnh mẽ FDI và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào thị trường của các nước đối tác...
- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
Thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là tên gọi của chủ đề Diễn đàn kinh tế thế giới Davos khai mạc vào ngày 20/1/2016 “Làm chủ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Từ đó đến nay, thuật ngữ này đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể diễn ra là do có sự hội tụ của các công nghệ mới, mà chủ yếu là IoT-Internet kết nối vạn vật, robot cao cấp, công nghệ in 3D, điện toán đám mây, công nghệ di động, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ nano - vật liệu mới, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử. Vì là sự kết hợp của nhiều công nghệ mới nêu trên, nên cuộc cách mạng này đang tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có thể tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cho Việt Nam những thời cơ sau:
Thứ nhất, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra một xã hội thông tin dựa trên nền tảng của công nghệ số. Nhiều quốc gia trên thế giới đã ứng dụng những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thực hiện chương trình chuyển đổi số, trong đó có Việt Nam. Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, yêu cầu khách quan, là lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu để phát triển nhanh và bền vững của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, được thể hiện rất rõ trong các quan điểm chỉ đạo, quyết tâm của Đảng, hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay; trở thành phong trào sâu rộng, thiết thực trong toàn xã hội, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Chuyển đổi số đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển kinh tế số, xã hội số, Chính phủ số, mở ra nhiều cơ hội và không gian đổi mới cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội. Chuyển đổi số đang tạo ra sự kết nối mạnh mẽ, tạo một nền tảng quan trọng để phát triển các mô hình kinh doanh mới, dịch vụ tiên tiến và trải nghiệm khách hàng. Đồng thời, cũng là điều kiện thuận lợi để các chủ thể trong nền kinh tế tiếp thu và ứng dụng các phát minh khoa học, sáng chế kỹ thuật và giải pháp công nghệ đa dạng, phong phú của nhân loại, mà trước hết là công nghệ số để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế trong mọi khâu của nền sản xuất xã hội. Về nội dung này, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: chúng ta phải “tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới, như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... Có cơ chế đột phá nhằm thu hút nhân tài ở trong nước và nước ngoài; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo”[2].
Thứ hai, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy sự phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam. Lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng xã hội, di động, phân tích và điện toán đám mây đang là xu hướng mới mẻ của cả thế giới và Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát triển trong lĩnh vực này. Với lợi thế hiện có, như hạ tầng Internet tương đối tốt, giá rẻ trong khi thiết bị di động cấu hình cao, giá thấp đang trở nên phổ biến cũng như sự khuyến khích phát triển của Chính phủ, khi dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng thì Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ điện toán đám mây rất lớn. Một yếu tố thuận lợi nữa là Việt Nam có các đối tác quan trọng là các tập đoàn công nghệ lớn, cho phép Việt Nam đẩy nhanh được việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhiều ngành, nghề, góp phần khắc phục những khó khăn hiện có để thực hiện mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số, ... tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng công dân số.
Thứ ba, đây cũng là cơ hội phát triển nhanh hơn cho nhiều ngành kinh tế và xây dựng những ngành mới thuộc các khu vực, như công nghiệp hàng không - vũ trụ, công nghiệp giải trí, công nghiệp sinh học, nông nghiệp xanh, công nghiệp quốc phòng,... bằng cách mở rộng ứng dụng các thành tựu, tiến bộ của công nghệ thông tin, công nghệ số, kỹ thuật điều khiển, công nghệ sinh học. Do vậy, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu: “Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển”.
Thứ tư, cơ hội đón đầu, hình thành và phát triển nhanh các nguồn năng lượng tái tạo. Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ ra, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội để Việt Nam đuổi kịp các nước phát triển do Việt Nam có lợi thế đối với một số năng lượng tái sinh (mặt trời, gió, sinh học) nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi, nên việc chuyển dịch cơ cấu năng lượng sẽ giúp Việt Nam giảm được áp lực về môi trường và sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng truyền thống, như thủy điện, nhiệt điện, dầu khí hay điện hạt nhân, đồng thời cũng là lợi thế cạnh tranh với các nền kinh tế khác.
Thứ năm, trong công nghệ sinh học, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động mạnh mẽ đến năng suất cũng như chất lượng cây trồng, vật nuôi; từ đó, tăng giá trị trong mỗi sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, góp phần tạo ra một nền nông nghiệp sạch với các sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, nếu tận dụng thành công những thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam có thể phát triển bứt phá, nhảy vọt, rút ngắn, đi thẳng vào hiện đại, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến khác.
- Về trật tự thế giới có nhiều biến động: Trật tự thế giới mới đang được hình thành, trong đó, vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng nâng cao.
Hiện nay, tương quan lực lượng Mỹ - Nga - Trung Quốc là yếu tố tác động toàn diện, sâu sắc nhất đến việc định hình, nhận diện trật tự thế giới trong thời gian tới. Với trật tự thế giới “đa cực, đa trung tâm” tiếp tục định hình rõ nét hơn đến năm 2030, trong đó Mỹ, Nga, Trung Quốc được đánh giá là ba “cực” chính, quan trọng nhất. Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng, Mỹ và Trung Quốc ở hai “cực” đối đầu, đóng vai trò chi phối, tạo dựng bức tranh toàn cảnh thế giới. Nga có vai trò “cân bằng chiến lược”, quyết định kết quả trong cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc. Các nước còn lại đóng vai trò như các “cực” vừa và nhỏ, do thực lực và vị thế quốc tế chưa thể sánh ngang với các “cực” chính nên các “cực” này, một mặt, vẫn liên kết với “cực” đứng đầu là Mỹ, Trung Quốc (xu hướng theo sự gắn kết lợi ích, hệ giá trị và quan hệ truyền thống) để tạo thế đứng trong quan hệ quốc tế; mặt khác, liên kết với nhau để tạo sự tự chủ chiến lược, từng bước thiết lập quyền lực nhất định trong trật tự thế giới mới. Bên cạnh đó, vai trò của các nền kinh tế mới nổi sẽ ngày càng được gia tăng với sức mạnh tổng hợp quốc gia từng bước được củng cố, cải thiện, đòi hỏi tái cấu trúc thể chế toàn cầu.
Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là địa bàn cọ xát chiến lược gay gắt nhất với tâm điểm là khu vực Đông Nam Á, trong đó Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là mục tiêu tranh thủ, lôi kéo trọng điểm của các nước lớn.
Cạnh tranh nước lớn gay gắt, sự đối đầu toàn diện Mỹ - Trung Quốc dẫn đến những sự thay đổi to lớn trong cục diện quan hệ quốc tế, nhất là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Khu vực này tiếp tục là trung tâm phát triển và thịnh vượng toàn cầu, đồng thời cũng là khu vực tiềm ẩn nhiều “điểm nóng” có khả năng bùng phát xung đột vũ trang(2). Đây là khu vực mà các nước lớn triển khai chiến lược tập trung nhất, điển hình là Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc, Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP) của Mỹ, chính sách “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ, chính sách “Kết nối Đông - Tây” của Nhật Bản, chính sách “hướng Nam” của Hàn Quốc, chiến lược “Đại Á - Âu” của Nga và chiến lược “Kết nối Á - Âu” của Liên minh châu Âu (EU). Điểm chung của các chiến lược nước lớn là đều lấy Đông Nam Á làm trọng điểm triển khai, vì thế ASEAN, với tư cách Cộng đồng và từng nước thành viên, trở thành tâm điểm cọ xát chiến lược của các nước lớn tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương[4].
Theo giới chuyên gia, môi trường và đời sống chính trị quốc tế sẽ đứng trước cả cơ hội và thách thức, bổ sung một số điểm so với trật tự thế giới hiện nay. Trật tự thế giới phát triển theo xu hướng “đa cực, đa trung tâm” sẽ tạo cơ sở nâng cao vai trò, sự tham gia, đóng góp sâu rộng hơn của các nước vừa và nhỏ, các trung tâm kinh tế mới nổi vào đời sống chính trị - kinh tế thế giới; môi trường quốc tế bình đẳng hơn và tình trạng áp đặt sẽ suy giảm tương đối, khiến các cực lớn phải có những hành xử trách nhiệm hơn. Trong trật tự đó, vai trò của Đông Nam Á/ASEAN ngày càng được nâng cao. Các nước trong khu vực có nhiều điều kiện hơn để thúc đẩy quan hệ với các nước lớn và những nước khác.
Việt Nam nằm trên tuyến đường biển huyết mạch của thế giới, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu và Trung Đông. Việt Nam cũng nằm trên hệ thống kết nối đường bộ của các quốc gia Đông Nam Á và châu Á. Hơn 90% lượng vận tải thương mại thế giới thực hiện bằng đường biển thì có 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông. Việt Nam cũng ở cạnh Trung Quốc, gần với Nhật Bản, Hàn Quốc là những quốc gia có tiềm lực kinh tế, thị trường lớn, có tiềm lực tài chính, khoa học - công nghệ mạnh... tạo cơ hội lớn cho Việt Nam mở rộng thị trường, xuất khẩu sản phẩm. Với vị trí địa chiến lược như trên, Việt Nam luôn có ý nghĩa chiến lược và được sự quan tâm của các nước, tạo lợi thế để Việt Nam phát huy thế mạnh, tiềm lực của mình, thu hút được nhiều sự quan tâm, đầu tư của các nước, đặc biệt là các nước lớn.
Như vậy, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức. Tuy nhiên, bối cảnh đó mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.
2.3. Ý chí tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam
- Trong lịch sử: Dân tộc Việt Nam với truyền thống văn hóa qua mấy nghìn năm lịch sử đã góp phần hình thành những đặc tính cơ bản của con người Việt Nam (với các đặc tính: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo), tạo lập ý chí tự lực, tự cường, tự chủ của mỗi cá nhân và toàn dân tộc để vượt qua mọi chông gai, thử thách trong công cuộc dựng nước, giữ nước và kiến thiết, phát triển đất nước. Ý chí tự lực, tự cường tạo nên sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam chiến thắng thiên tai, địch họa, giữ vững chủ quyền quốc gia dân tộc, trở thành truyền thống lâu đời, quý giá của dân tộc Việt Nam.
- Từ khi Đảng ra đời: Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt, Đảng đã khơi dậy, phát huy được ý chí tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại đưa cách mạng Việt Nam đạt được những kỳ tích (kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã đúc kết một bài học của cách mạng Việt Nam, đó là: Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
- Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam: Việt Nam đang có những thời cơ để tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Nếu như trong những thời kỳ trước, tự lực, tự cường là để giành độc lập, tự do, thì trong thời đại ngày nay, trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, tự lực, tự cường là để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
3. Kết luận
Từ các cơ sở trên cho thấy, đây chính là thời khắc hội tụ, tổng hòa các lợi thế, sức mạnh của dân tộc và thời đại để bắt đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần 10 (khóa XIII) họp từ ngày 18 đến ngày 20/9/2024 đã thống nhất khẳng định Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: “Chúng ta xác định Đại hội XIV là Đại hội đánh dấu thời điểm đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Từ đây, hàng trăm triệu người dân Việt Nam như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm, hiệp lực, chung sức, đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, biến thách thức thành thời cơ, đẩy lùi các nguy cơ, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Nhằm tạo đà cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đi đến đích thắng lợi, đòi hỏi trong thời gian tới cần thực hiện thành công 7 định hướng chiến lược đã được Tổng Bí thư Tô Lâm đề ra: 1). Cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng; 2). Tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; 3). Tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả; 4). Chuyển đổi số; 5). Chống lãng phí; 6). Đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực; 7). Phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình.