Tin Nổi bật

CÔNG TÁC CÁN BỘ - ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

 

Trong không khí toàn Đảng, toàn quân, toàn dân hăng hái thi đua học tập chào mừng kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; thực hiện Kế hoạch số 284-KH/TU ngày 29/11/2024 và ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Phong tại Hội nghị trực tuyến ngày 06/12/2024 do Thành ủy tổ chức về "quán triệt tư tưởng chỉ đạo, định hướng lớn của Đảng và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc", Đảng ủy Khối các trường Đại học, Cao đẳng Hà Nội phối hợp với trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức hội nghị tọa đàm về "kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc". Ban biên tập website trân trọng giới thiệu bài viết “Công tác cán bộ - Động lực quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” của Giảng viên Vũ Trà Giang - Giảng viên khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Công đoàn đến bạn đọc.

 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc rèn luyện phẩm chất đạo  đức cách mạng, nâng cao năng lực trong công việc của mỗi cán bộ, đảng viên và  khi đã có đường lối cách mạng đúng đắn thì công tác cán bộ là khâu quyết định.  Người căn dặn: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, bởi cán bộ chính là “những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ  và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính  phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Do đó, “muôn việc thành công hoặc thất  bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. 

 Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh  đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại  của cách mạng”. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền  vững nhằm đạt mục tiêu tổng quát: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến  lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng  và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm  sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành  nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành  nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu,  nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. 

 Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam sớm tới đích hay  không phụ thuộc vào ý chí, quyết tâm và sức mạnh phấn đấu của toàn dân tộc, trong đó,  đội ngũ cán bộ là một trong những nhân tố then chốt, giữ vai trò động lực quyết định.  Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới với yêu cầu rất cao, bởi chúng ta có  thời cơ nhiều, vận hội lớn, nhưng khó khăn, thách thức cũng rất gay gắt. Do đó, hơn bao  giờ hết, công tác cán bộ phải được quan tâm, đặc biệt chú trọng. Chỉ khi làm tốt công  tác cán bộ thì mục tiêu bước vào kỷ nguyên mới mới được hiện thực hóa. 

2. NỘI DUNG 

 2.1. Nền tảng và điều kiện quan trọng để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới  Nhân loại đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, nhanh chóng, với nhiều biến  đổi rất lớn và căn bản, vừa có nhiều thách thức mới, vừa tạo ra những vận hội, thời cơ  phát triển mới. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu  đột phá vừa tạo ra những cơ hội, thách thức, thời cơ phát triển mới chưa từng có. Quốc gia nào tận dụng được thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể tạo  ra sự phát triển bứt phá. 

 Đảng ta đã nhận thức đúng, quyết tâm nắm bắt cơ hội này và đang thực hiện nhiều  giải pháp tích cực để thích ứng, khai thác, phát huy các thành tựu vượt trội của Cách  mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây không chỉ là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, phát  triển bứt phá, đuổi kịp, tiến nhanh cùng thời đại, mà còn là khởi điểm lịch sử trong tiến  trình phát triển, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc  Việt Nam. 

 Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát  triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng  thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công  bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc  sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho  hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.  Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội chủ nghĩa, sánh  vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới của Đảng và  Nhà nước là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm  2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát  triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Thời điểm  bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, trăm  triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng  lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát  triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.  

 Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển  mạnh mẽ, trình độ nền kinh tế được nâng lên cao hơn, quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt  430 tỉ USD, đứng thứ 35 trên thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN. GDP bình quân đầu  người đạt gần 4.300 USD, gần gấp 58 lần sau ba thập kỷ, tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 58%  (theo chuẩn cũ) năm 1993 xuống còn 2,93% (theo chuẩn nghèo đa chiều với tiêu chí cao  hơn trước) năm 2023. Tăng trưởng dựa nhiều hơn vào khoa học - công nghệ, đổi mới  sáng tạo”. Những kết quả đạt được trên là nền tảng và điều kiện quan trọng để Việt  Nam hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình  của dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn  vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. 

 2.2. Công tác cán bộ là động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới  Nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của công tác cán bộ trong kỷ nguyên mới,  Đảng ta luôn khẳng định: Công tác cán bộ là khâu “then chốt của then chốt”, vì vậy, xây  dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công  việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt  chẽ và hiệu quả. Để làm được điều đó, cần tập trung vào một số vấn đề sau:  

2.2.1. Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề rất trọng yếu của Đảng ta  

Công tác cán bộ là một trong những công tác trọng yếu của Đảng, là nhân tố trực  tiếp quyết định thành công của mọi công việc, đó là nguyên lý. Theo đó, việc phát hiện,  quy hoạch, bồi dưỡng, nhất là bố trí sử dụng cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu đề ra. 

 Cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn luôn có ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình,  làm “đúng vai, thuộc bài”, thật sự có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;  gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu, quý trọng”. Trong đội ngũ cán  bộ, cán bộ cấp chiến lược là gốc của cái gốc đó, là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quan  trọng nhất trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức chính trị-xã  hội. Thực tế cho thấy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là vào những thời điểm quyết  định hoặc có tính bước ngoặt lịch sử, vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp chiến  lược. Do đó, cần phải khẳng định và thấm nhuần sâu sắc vị trí, ý nghĩa của công việc  cực kỳ quan trọng này - công việc có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của  Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước. 

 Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII đưa ra 3 đột phá chiến lược trong giai đoạn mới  là đột phá về thể chế; đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao  và đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng. Trong đó, Hội nghị đặc biệt chú trọng đột phá  về nguồn nhân lực, nhất là về công tác cán bộ. Nếu như Đại hội XIII nhấn mạnh đột phá  về nguồn nhân lực là “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;  ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then  chốt” thì Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII yêu cầu cụ thể hóa hơn, coi công tác cán  bộ như là một trọng tâm trong đột phá chiến lược. Điều này là hoàn toàn đúng. Cố Tổng  Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ rõ: “Công tác cán bộ qua thực tiễn ngày càng  thấy quan trọng, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, là gốc của mọi công việc, then  chốt của then chốt”. 

 Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới với yêu cầu rất cao, hướng đến  mục tiêu năm 2045 “trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Thời cơ nhiều, vận hội  lớn nhưng khó khăn, thách thức cũng rất gay gắt. Hơn bao giờ hết công tác cán bộ được  đặc biệt chú trọng. Đại hội XIII đưa ra mô hình cán bộ “7 dám”: Dám nghĩ; dám nói;  dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn,  thử thách và dám hành động vì lợi ích chung. Vì cán bộ là cái gốc của vấn đề, “then chốt  của then chốt”. Cán bộ được lựa chọn một cách minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, thực  sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình vươn mình. 

 2.2.2. Những thành tựu cơ bản trong công tác cán bộ hiện nay  

Sau 20 năm thực hiện “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện  đại hóa đất nước”, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề,  lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản  đảm bảo sự chuyển tiếp giữa các độ tuổi, các thế hệ. 

 Phần lớn đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu, lý  tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức, lối sống giản dị, “chí công vô tư”,  hoàn thành nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. 

 Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp có năng lực, phẩm chất,  uy tín; cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư  tưởng Hồ Chí Minh, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách  và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được  rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, với Nhân dân, sẵn sàng chiến  đấu, hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học, trí thức, văn nghệ sỹ tâm huyết, say mê  nghiên cứu, sáng tạo, đóng góp tích cực cho sự nghiệp chung. Một số cán bộ lãnh đạo,  quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất  và kinh doanh có hiệu quả. 

 Công tác cán bộ đang đi dần vào nền nếp, bám sát các quan điểm, nguyên tắc của  Đảng và đạt được những kết quả quan trọng. Đảng đã xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và  ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, quy định, quy chế về cán bộ và công tác cán bộ.  Quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch và dân  chủ hơn. Việc đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới được quan tâm hơn, từng bước  gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chủ trương luân chuyển kết hợp  với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt được kết quả bước  đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ từng bước được coi trọng; kỷ cương, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước được tăng cường. Việc xử lý kịp thời,  nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần ngăn chặn tiêu cực, làm trong  sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân  đối với Đảng, Nhà nước. 

 2.2.3. Nhận diện những điểm nghẽn trong công tác cán bộ hiện nay  

Thứ nhất, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa  thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn  chế. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra.  Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên  nhiều lĩnh vực. 

 Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều  cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao, thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên  môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường  quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. 

 Một bộ phận không nhỏ cán bộ, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao chưa nêu  cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật,  làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,  có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thiếu thẳng thắn trong tự phê bình và phê  bình, vẫn còn nể nang, né tránh, sợ va chạm, trù dập; thiếu sự tham gia giám sát của  người dân; trách nhiệm của người đứng đầu còn hạn chế, còn biểu hiện “lạm quyền”,  “lộng quyền”, tư tưởng tham vọng quyền lực, tư duy nhiệm kỳ, “một người làm quan,  cả họ được nhờ”, hay “cả họ làm quan”, lấn át tập thể.  

 Thứ hai, cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm trong công tác cán bộ còn chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp. Ở một số nơi tình trạng chạy chức, chạy quyền,  chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,... trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.  

Thứ ba, một số khâu trong công tác cán bộ chậm được đổi mới, một số quy trình  chưa hoàn thiện, còn lỗ hổng, bị lợi dụng. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản  ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm  tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa  các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm  “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt  chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh.  Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người  địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp  xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy  trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. 

 Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người  nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã  hội. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất  lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu  hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút  trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. 

 Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng  bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo  động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng  động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với  khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. 

 Thứ tư, phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở cấp  trên. Một số chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu nhất  quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm. Việc kiểm tra, giám sát thiếu  chủ động, chưa thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu  quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm. 

 Căn bệnh sợ trách nhiệm, né việc trong đội ngũ cán bộ đã và đang tạo ra những  điểm nghẽn, làm chậm trễ và trì trệ hoạt động công vụ, bào mòn và làm suy giảm niềm tin của người dân, doanh nghiệp, cản trở động lực và nguồn lực phát triển, ảnh hưởng  đến mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội. 

 Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định. Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ chưa tương xứng với  yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng,  nhiệm vụ chưa thật hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ làm công  tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, thậm chí là bố trí sai.  

 Sự trưởng thành, phát triển của đội ngũ cán bộ là nhân tố then chốt, quyết định  những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước. Song,  những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong  công tác cán bộ cũng là nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương  xứng với tiềm năng, thế mạnh, chậm và yếu so với một số nước trong khu vực, làm suy  giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.  

 3. Giải pháp đột phá phát huy vai trò động lực của công tác cán bộ trong kỷ nguyên mới 

 Để phát huy vai trò động lực của công tác cán bộ trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên  vươn mình của dân tộc, cần tập trung vào một số giải pháp sau: 

 Một là, Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ  Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ gắn với tăng cường  trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu trong công tác cán bộ. Tuyệt đối giữ vững  vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng, phát huy trí tuệ, kiến thức và kinh nghiệm của  mọi cán bộ, đảng viên tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Để có những quyết sách, quyết  định đúng cần phát huy dân chủ trong các khâu của công tác cán bộ, lắng nghe ý kiến  của quần chúng, của cấp dưới và phát huy trách nhiệm của người đứng đầu.  Mỗi người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị phải là tấm gương sáng về đạo đức,  lối sống, tác phong công tác, nhất là về phẩm chất, năng lực, uy tín để toàn cơ quan, đơn  vị noi theo; tự bản thân người đứng đầu phải xác định rõ vai trò, vị trí của mình trước  tập thể; gương mẫu, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính  sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của cấp trên; tổ chức, điều hành cơ quan, đơn  vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng quy định; tự mình phải chịu trách nhiệm chính trong việc ra các quyết định, chủ trương, giải pháp  cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó.  Hai là, đổi mới mạnh mẽ các khâu trong công tác cán bộ 

 Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công  tác cán bộ được chủ động, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; làm căn cứ để đào  tạo, bồi dưỡng cán bộ vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn  công tác chuyên môn. Vì vậy, thực hiện tốt công tác quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng  cán bộ sẽ tạo ra sự chủ động, bảo đảm tính kế thừa, phát triển, khắc phục tình trạng hẫng  hụt trong bố trí, sử dụng cán bộ.

 Công tác quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và từ thực trạng đội  ngũ cán bộ để xây dựng quy hoạch, bảo đảm tính khoa học, tính kế thừa liên tục và vững  chắc. Để làm tốt điều đó, công tác quy hoạch phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng; trong đó,  nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải toàn diện, thiết thực cả về lý luận và thực tiễn; chú  trọng đào tạo chuyên sâu, kết hợp nhiều hình thức, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng và gắn  đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng cán bộ. 

 Đặc biệt, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đối với các cán bộ được  quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, bảo đảm lựa chọn ra được  cấp ủy, nhất là người đứng đầu có năng lực lãnh đạo, có sức chiến đấu cao, dám nghĩ,  dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung, có năng lực  lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết của Đảng vào  thực tiễn cuộc sống trên từng lĩnh vực, địa bàn. 

 Để thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cần nâng cao  nhận thức của cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên về công tác  quy hoạch cán bộ, tạo cơ sở thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ;  đồng thời, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với quy hoạch đội ngũ cán bộ bảo  đảm đồng bộ, thiết thực. Mặt khác, việc bố trí, sử dụng cán bộ phải đúng người, đúng  việc, đúng sở trường nhằm phát huy tốt nhất năng lực của cán bộ. 

 Khi bố trí, sử dụng cán bộ, cần lấy ý kiến rộng rãi, đa chiều, làm cơ sở để quyết  định trong bố trí và sử dụng; lắng nghe ý kiến của tập thể và của cấp ủy, chính quyền  địa phương nơi cán bộ sinh sống. Bên cạnh đó, bố trí, sử dụng cán bộ phải bảo đảm cơ  cấu hợp lý giữa các chức danh lãnh đạo, quản lý với trình độ chuyên môn, lĩnh vực công  tác, trên cơ sở nắm rõ tâm tư, nguyện vọng của cán bộ. Mạnh dạn bổ nhiệm cán bộ trẻ để họ có chức danh lãnh đạo, quản lý, được rèn luyện, thử thách, từ đó ngày càng trưởng  thành, có điều kiện tham gia cấp ủy. 

 Khâu đánh giá, nhận xét cán bộ là rất quan trọng, đòi hỏi phải công tâm, khách  quan, thực chất, tạo sự đoàn kết, nhất trí cao trong tổ chức và phải làm thật tốt để nâng  cao chất lượng các khâu khác của công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trong  đánh giá, nhận xét về phẩm chất, năng lực cán bộ, phải lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo chính gắn với sản phẩm cụ thể, bảo đảm khách quan, cụ thể,  khoa học, chính xác; phải được cấp ủy thảo luận dân chủ, kiên quyết khắc phục tình  trạng chuyên quyền để quyết định các vấn đề trong công tác cán bộ.  Cùng với đó, việc đánh giá phải toàn diện cả đức và tài, chú trọng về phẩm chất  chính trị và năng lực công tác chuyên môn, đặt trong môi trường, điều kiện, hoàn cảnh  cụ thể; khắc phục tình trạng đánh giá cán bộ một cách chung chung, cảm tính, chủ quan,  coi bằng cấp, học vị cao hơn phẩm chất, năng lực. 

 Ba là, xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ,  dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. 

 Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ với phương châm “6 dám” (dám  nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt hành động vì lợi ích chung) phải đặt dưới sự lãnh  đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính  trị và sự tham gia tích cực của nhân dân; trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám  làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông,  không thực tế; bảo vệ đối với những trường hợp nguy cơ rủi ro, sai sót từ sớm, ngay khi  có kế hoạch, không để nhụt chí. 

 Khi cán bộ, đảng viên có ý tưởng mới, đột phá thì cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng  đầu cần nghiêm túc xem xét tính khả thi, nội dung, tính chất, quy mô của ý tưởng để yêu  cầu cán bộ, đảng viên xây dựng kế hoạch hoặc đề án phùhợp; sau đó, thảo luận, bàn bạc  dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, trưng cầu ý kiến chuyên gia và các đối tượng bị tác động; đánh giá, thẩm định kế hoạch và quyết định cho cán bộ, đảng viên triển khai  hoặc không triển khai. 

 Bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá cần dựa trên  các tiêu chí, điều kiện, quy trình cụ thể, rõ ràng để phân biệt giữa hành vi đột phá, quyết  đoán vì lợi ích chung với những sai lầm, khuyết điểm vì lợi ích cá nhân.  Bốn là, kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy  quyền. 

 Xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo  nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn  phải được ràng buộc bằng trách nhiệm. Xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân,  nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ. Thực hiện công khai, minh bạch tiêu  chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi  có yêu cầu. Xác minh, xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ánh từ các tổ chức,  cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng. 

 Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề,  chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cảnh  báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm, bảo đảm không có vùng cấm, không có ngoại lệ.  Nhận thức sâu sắc về tác hại nghiêm trọng của chạy chức, chạy quyền, coi đây là hành  vi tham nhũng trong công tác cán bộ. 

 Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành  vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách  nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hóa không chạy chức,  chạy quyền. Bên cạnh đó, cần mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội,  Hội đồng nhân dân; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức  chính trị-xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.  Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ. 

 Thực hiện hiệu quả các giải pháp nêu trên là góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược ngang tầm với yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp  cách mạng của Đảng, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới,  kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

 4. KẾT LUẬN 

 Có thể nói, sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc  đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ là nguyên nhân  chủ yếu khiến đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng,  

từ đó làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.  Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đòi hỏi công tác cán  bộ phải tiếp tục điều chỉnh và đổi mới toàn diện nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân  giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội,  sánh vai với các cường quốc năm châu./. 

 

 

Tin liên quan
Top